CHÚ THÍCH
“Bỏ chạy rồi lại quay về. Đá đòn Hồi Mã ôi ghê quá chừng”. Đó là gà Chạy Kiệu, gà nầy khi bắt đầu đá thì cứ bỏ chạy ít có chịu đá, chờ cho địch thủ thấm mệt mới ra đòn quyết định để dành phần thắng.
“Gà Đào thân bé gầy gầy…” còn gọi là gà Phụng vì đuôi dài hơn gà bình thường, chạng nhỏ khoảng 2kg6 đến dưới 3kg. Có một người nuôi ở Tân Vạn – Biên Hoà. Giống nầy khá nổi tiếng ở thập niên 60.
“Lưởi như lưởi Rắn thè ra”. Gà nầy đầu lưởi chẻ đôi như lưởi Rắn nên gọi là Linh kê lưởi Rắn, trong cánh gà có mấy vảy mỏng sát với da như vảy Rắn được xem là Linh kê
“Nguyệt Lân là cựa có răng…”. Cựa nầy có hình dáng giống như sừng con Lân mà ngày tết các võ đường hay múa Lân. Cựa nầy rất độc.
“Gà mà lông mọc lưa thưa. Phao câu không có…”. Đó là gà Cúp, gà nầy có biệt tài tránh né nên ít khi bị té.Tốc độ thì trung bình, nhưng đòn thì một cài đáng một cái.
“Gà mà miệng rộng tan hoang. Lưởi thụt trong cổ hào quang mờ mờ”. Gà nầy khi gáy miệng mở to, Ban đêm nếu nó gáy sẽ thấy ánh sáng rất yếu trong cổ họng của nó. Gà nầy còn gọi là gà Ngọc. Nó là Linh kê ngậm ngọc.
“Dưới chân có vảy bàn cờ.” Tức là vảy Địa giáp dưới lòng bàn chân.
“Gà mà có vảy dưới hầu…” Là vảy Giáp Cần.
Thanh Long là gà một vảy quấn ngang cựa, Không phải Xiên đao đầu cao đầu thấp.Gà nầy đòn hay cựa đâm dử tợn.Nếu mé bên dưới vảy nầy ờ đường chỉ nhỏ ngay cựa, đầu hơi nhô lên, ta dùng móng tay cạy lên một ít, ta thấy bên trong có một vảy thật nhỏ, đó là vảy Độc đao ẩn.gà nầy đòn tài, sử dụng cựa mảnh liệt.Độc đao Ẩn là Thần kê.
“Đạp mái thì đạp trên trời…” Ý nói gà nầy rượt mái chạy té khói, đến khi mái nhảy lên cao cho đến lúc thuận tiện thì anh nầy mới chịu đạp mái.
“Gà mà như thể mắc mưa. Xác sơ sơ xác ấy là gà Te”. Gà Te là gà lông lúc nào cũng xấu, dù nuôi kỷ thế nào lông cũng như vậy, không bao giờ bóng mượt.Gà nầy rất có tài, nhưng khác với gà Cúp là có phao câu.
“Nội Hoa Đăng vẩn miệt mài. Song song vảy ngón chạy dài lên trên”. Vảy hàng Nội và vảy ngón Thới, song song nhau chạy tận gối gọi là Nội Hoa Đăng (nhìn mặt tiền thấy ba hàng vảy) Nếu vảy nầy đóng cả hai chân là Thần kê.
“Đại Giáp ngậm vảy ngâm nga…” Ba vảy nối nhau không đườn chỉ đất là Đại Giáp, nếu đóng ngay cựa có chổ lỏm vô, chổ lỏm có một vảy nhỏ thì gọi là Đại Giáp ngậm ngọc. Gà nầy sử dụng cựa mãnh liệt, và là vảy Khắc cựa Phòng đao.Khó có gà nào đâm chết được nó.Tài nghệ thì miển chê.
“Hai chân Án-Phủ đó mà..”. Một chân đệ nhất Án Thiên, một chân Phủ Địa. Gọi là vảy Tứ Trực gà nầy rất tài ba.
“Hoa Mai Chậu thật là dễ thương…”. Dưới cựa sát với chậu, có năm vảy lớn xếp làm năm cánh, chính giữa có một vảy nhỏ, hình dáng giống như Hoa Mai nên gọi là Hoa mai chậu.Gà nầy là chuyên gia gốc cổ.
“Vảy dưới chậu lại hở ra. Ấy là Rọc Chậu….”. Vài hàng vảy cuối cùng dưới chậu, ngay kẻ chân giữa ngón Ngoài và ngón Giữa có một đường chỉ hơi lớn từ trên xuống làm cho hai hàng vảy không khít với nhau.Vảy nầy gọi là Rọc Chậu.Gà nầy trước sao gì cũng bị mù mắt.
Song Cúc: Dưới cựa có hai vảy Dậm nhỏ đi liền với nhau, theo chiều thẳng đứng, hình dáng như Tam tài hoặc Huyền châm, vảy nầy gọi là Song cúc, còn mỗi chân có một vảy đối chiếu nhau cũng gọi là Song Cúc, nếu chỉ có một chân có vảy thì gọi là Cúc Bồn. Gà Song Cúc có đòn liên hoàn từ hai, ba cái đá trở lên, còn vảy Cúc Bồn thì vô thưởng vô phạt. Nếu vảy nầy đóng trên cửa thì gọi là Ngậm Thẻ. BạchGà nầy dở, đòn đá thì tứ tung không đâu ra đâu.
Tứ Trực: Gà một chân Án Thiên, một chân Phủ Địa. Gà nầy rất tài ba, ăn gà có Liên giáp nội. Tứ Trực còn có tên khác là Âm Dương Tương Giao.
Đệ nhất Thần Hổ Đao: Mỗi chân có một Đại Giáp đóng trên cựa một chút vì ngậm vảy cuối cùng của hàng Thới đi lên. Gà nầy khắc cựa phòng đao, nên không có gà nào đâm chết được nó dù là tài ba đến đâu. Gà Đại Giáp Ngậm Ngọc rất là tài ba, dùng cựa mãnh liệt, có thể đá chết địch thủ tại sới hoặc khi mang về nhà thì địch thủ cũng chết.
Đệ nhị Thần Hổ Đao: Hình thức như vảy đệ nhất, khác ở chổ thay gì Đại giáp thì vảy nầy là Liên Giáp Nội.Gà nầy cũng rất tài ba.
Đệ tam Thần Hổ Đao: Hình thức như hai vảy trên nhưng khác ở chỗ có một vảy lớn đóng ngay cựa (không phải là Liên giáp ). Cả ba vảy nầy đều khắc cựa nên địch thủ khó đâm chết được nó.
Ám Long: còn có tên gọi là vảy Yến. Ám Long là vảy giắt thật nhỏ, có khi không thấy, lót dưới một vảy lớn trước khi đụng ngón Ngọ hoặc lót dưới một vảy lớn đóng ngay cựa, nếu vảy giắt nầy màu hồng thì là Thần kê, vảy giắt nầy càng nhỏ càng quý.
Ác tinh: Hàng Biên dưới cựa, đôi khi có một đường vảy nhỏ lăn tăn, nếu có một vảy màu đỏ thật đỏ, đó là vảy Ác Tinh. Gà nầy hung dử bạo tàn.Tài ba xuất chúng.
Linh Giáp Tử: Cả hai chân đều có Liên Giáp Nội đóng ngang cựa, cùng ngậm một vảy nhỏ.gà nầy ra đòn hay, đòn độc ở hồ hai, gà nầy có đòn chưởng, buộc địch thủ bỏ chạy hoặc chết tại sới.Đặt biệt gà LGT khắc cựa địch thủ.
Nhân Tự Thới: Hàng Thới từ móng trở vào có vài vảy hình chử Nhân. Gà nầy chuyên gia móc mắt.
Thất Bát: Vảy hàng Trong lấn muốn hết chổ hàng Ngoài.Gà nầy đá rất dở.
Nhân Tự Biên: Vảy ở hàng Biên hình chử Nhân, từ trên gối xuống đến chậu.Gà nầy có đòn đá rất độc.
Tam Vinh: Mặt tiền hai hàng vảy Trơn sạch sẻ.Mặt sau và hai bên hông:Hậu, Độ, Biên, Kẻm ngay hàng thẳng lối, kông bì chia cắt.Cà hai chân đều như thế thì gọi là gà Tam Vinh.Gà nầy có đòn sáng sủa và biết tuỳ cơ ứng biến, biết thay đỏi đòn thế để đánh địch thủ đến khi nào bỏ chạy mới thôi, gà nầy cũng khắt cựa.
Giáp Vy Đao: Khoảng năm vảy, đầu sát với hàng Thành, hình nhọn chóp nón, đuôi châu lại chỉ vào cựa, dó là vảy GVĐ. Gà nầy đòn độc cựa rất nguy hiểm.Trường họp chỉ có một vảy nằm ngang với cựa, gọi là Trực Đao hoặc Xiên Đao.Trực đao tuy không bằng GVĐ, nhưng gà nầy cũng là gà hay, cựa đâm tốt.
Lưởng Ngọc Song Cước: Từ cựa đi lên ở hàng Thành và hàng Quách, mỗi chân có một vảy rất lớn, đối chiếu nhau.Vảy nầy gôi là LNSC.Gà nầy có đòn đá liên hoàn từ hai, ba đòn trở lên trong mỗi lần đá.
Dặm Ngoại Cán: Ở hàng Thành trước khi đụng ngón có một vảy dậm vào một vảy lớn, đó là DNC. gà nầy đá rầt dở , không nên nuôi.
Phản Hậu: Vảy Hậu thường úp lên, Phản Hậu thì úp xuống.gà nầy đòn đá rất hiểm, gà hay.
Tứ Trục Giáp: Hai chân, mỗi chân có vảy Án Thiên, một chân có Phủ Địa.Gà đóng vảy nầy thì tài nghệ miển chê, gà nầy cũng khắc cựa phòng đao.
Nguyệt Ám Chỉ: Hàng vảy nhỏ trên gối ( Bên trên Án Thiên )có một đường như sợi chỉ quấn từ Quách qua Thành. Gà nầy rất tài
Giao Long: Một vảy đầu lớn ở hàng Nội, đuôi nhỏ sát với hàng Thành. Gà nầy khi đá chui lườn cắn đùi, cắn gối, đá vỉa.
Nhật Thới: Từ móng của hàng Thới đếm vào, vảy thứ ba hình chử nhật, lớn hơn các vảy khác cùng ngón, đó là nhật thới. Gà nầy khi đá có dùng thới. Khác với vảy nhân tự thới ở trên.
Hắc hổ thới: Ba móng (Chúa, nội, ngoại) màu trắng, nhưng móng ngón thới màu đen. Gà này đá đòn nào ra đòn đó.
Thần Lực Chi Bái: Bất cứ ngón chân trước nào cũng có ba đốt, nếu đếm từ đốt, từ một tới ba đầu vảy có đốm, đó là TLCB, nếu như cỉ có đốm ờ vảy một và hai.Gà nầy thì trổ đòn độc ở hồ hai trở đi.
Giáp Thới Phòng Đao: Vảy hàng Thới rỏ ràng, đều đặn chạy lên khỏi cựa cong vào ôm lấy cựa, nếu hai chân đều có như thế thì rất quý.Gà nầy tài ba lắm.Gà nầy thắng dịch thủ rất nhanh, cựa đâm mảnh liệt.
Giáp Cần: Trên cổ có vảy gôi là GC.Gà nầy hiếm quý.
Huyền Châm: Một vảy dậm vào giữa bốn vảy lớn của hàng Quách và Thành. Gà nầy dùng cựa mảnh liệt và có tài.
Gạc Thập: Còn gọi là Thập Điền, dưới cựa có bốn vảy đường chỉ hình dấu cộng, nếu đóng ngay cựa là tốt nhất.Gà nầy rất là hung dử, gan lỳ, cựa rất nhạy đâm.
Ác Hổ Báo: Móng ngón giữa của gà có chấm đen hoặc xanh.Gà nầy có đòn đá rất hiểm độc.
Lộc Điền Tự: Hai vảy hàng Nội và Ngoại châu vào nhau, đường chỉ đất rất nhỏ khiến cho hai vảy không Nội không Ngoại. Vảy nầy rất xấu, tốt nhất đừng nuôi gà có đóng vảy nầy.
Nhật Thần: Vảy Liên Giáp Nội, đầu sát với hàng Thành hơi tròn, đó là NT.
Hổ Khẩu: Vảy Liên Giáp Nội mở miệng hơi lớn.Đó là HK.
Hàm Long: Liên Giáp Nội mở miệng rất nhỏ. Cả ba vảy nầy đều đóng ngay cựa. Gà này cũng hay lấm và sử dụng cựa.
Tam Tài: Hình thức như Huyền Châm nhưng có tới ba vảy dậm từtrên xuống.Tứ Quý hình thức củng như vậy nhưng có bốn vảy dậm, có năm vảy thì gọi là Ngũ Quỉ.Gà nầy có tài nhất là Tam Tài.Các vảy nầy thường đóng trên gối.
*********
+ Văn Võ Song Toàn: Một chân có ba hàng vảy từ gối xuống tới chậu, một chân hai hàng trơn.Gà nầy cũng hay lắm, khắc cựa.
+ Phủ Hành Song: Một chân có hai Phủ Địa, mộtchân có Vấn Án Hoành Khai.Gà nầy rất lanh lẹ, ăn miếng trả miếng.Gà đi trên đá đầu, cổ, mặt.
+ Vấn Án Hoành Khai: Một vảy quấn ngay cựa giữa có một đường nứt. Gà nầy mỗi hồ có một đòn Cáo rất hiểm độc.
+ Phủ Thành Kích: Ở hàng Thành bất cứ trên hay dưới có một vảy lớn úp lên một vảy nhỏ, thường đóng ở giữa cán.Gà nầy hay lắm, trong đời phải có thằng độ.
+ Yểm Địa: Dưới chậu, ngay đầu ngón Nội cómộtvảy nhỏ dặm vào, nếu đóng cả hai chân, gà tài.Gà nầy đá đòn rất chính xác, cựa đâm dử.Hạ địch thủ dễ dàng.
+ Bạch Giáp: Chân đen, vàng, xanh, da đá, dưới cựa ở hàng Nội có mộtvảu màu Trắng.Vảy nầy gọi là Bạch Giáp.Gà nầy cũng hay lắm.
+ Độc Giác: Hai chân, mỗi chân có một vảy lớn(không phải Liên Giáp) ngay cựa cùng mở miệng ngậm một vảy nhỏ.Gà nầy trổ tài từ hồ ba.
+Song Liên Tự: Mỗi chân gà đều có Liên Giáp Nội đóng ngay cựa cùng mở miệng ngậm ngọc.Gà nầy trổ đòn tài vào hồ hai.Gà nầy tài lắm. Song Liên Tự ăn Liên Giáp Nội, Hàm long, Nhật thần, Hổ khẩu. Gà nầy cản cựa địch thủ.
+ Bán Nguyệt Nội: Hai ngón Nội cong vào. Gà nầy có đòn mạnh.
+ Dặm Ngoại Ngón: Ngón Ngoài của gà có mộtvảy nỏ dậm dưới mộtvảy lớn, nhất là mé bên ngoài. Gà nầy rất dở không nên nuôi.
+ Lục Kiết Giáp: Mặt tiền của cán có vảy thật khô, hàng Biên màu đò hoặc đen, dưới cựa các vảy nhỏ có đầu nhọn, hàng Biên phụ cũng như vậy. Gà nầy rất hay.
+Án Văn Đồng Giao:Hàng Nội dưới cựa có một vấn khâu chịu hai đường nứt. Gà nầy đi trên, đá hầu, sỏ, mé, cần non. Gà nầy có đòn Oán, bị đá đau nó sẽ trả lại ngay.
+ Song Âm Song Dương: Mỗi chân có Án thiên đồng thời trên cựa có hai vấn Cán. Gà tài lắm.
+ Tứ Hoành Khai (xấu ): Còn có tên là Đâu Đầu Nhịn Miệng. Trên Án thiên, có bốn vảy nhỏ đóng từ Quách qua Thành, nếu năm vảy thì gọi là Ngũ Tu. Gà dở yếu sức, hay bị mù mắt.
+ Nát Gối: (nếu như cả trước lẩn sau gối thì không nên nuôi ):Trên gối các vảy nhỏ không thứ tự.
+ Nhược Giáp (xấu ): Hai hàng vảy Quách và Thành, nhỏ, hình chử nhật (nhỏ nhiều so với bình thường )Gà nầy bết lắm không nên nuôi.
+ Khép Nách (xấu ): Khi gà đứng ngón Thới khép sát vào với bàn chân. Gà nầykhông tốt. Trái lại khi bồng lên mà khépnhư vậy thì tốt vì gà có dùng Thới.
+ Hoàng Thành Chỉ Địa:vảy ở hàng Nội lớn đầu cao, đuôi hơi nhỏ chỉ xuống. Gà nầy khôn lanh, trả đòn nhanh, cựa đâm.
+ Lộc Điền Ngoại: Một vảy nhỏ dậm thêm vào vảy lớn ở sát chậu thuộc ngón Ngoài. Nếu có cả hai chân thì thuận hai bên, nếu một chân thì thuận một bên. Còn đóng ở ngón Nội thì là gà khá.
+ Hoành Không (xấu): Đầu lớn ở hàng Thành, đuôi ở hàng Quách nhỏ. Gànầy dở. Nếu từ trên gối ở hàng thứ năm hoặc trên cựa ở hàng thứ tư thì được.
+ Mai Hồng: Chân gà có ba màu, nửa trên một mà, nửa dưới một màu, hàng Biên một màu. Gà nầy hiếm quí. Gà nầy tài nghệ khỏi chê.
+ Độc Biên: Hàng Biên chỉ có một hàng từ gối thẳng từ gối xuống khỏi cựa. Nếu lớn thẳng hàng, không chia cắt. Rất tốt, gà nầy đòn tài, chân đánh khá nặng.
+ Thư Hùng Kê: Hai chân mỗi chân một màu, chân màu trắng, chân màu đen hoặc chân màu vàng, chân kia màu xanh. Gà nầy rất tài.
+Thập Cựa: Còn gọi là Thập Đao. Hàng Biên phụ ngay cựa có có một vảy nhỏ hình vuông. Gà nầy cựa rất nhạy, đòn khá tốt.
+ Liên Châu: Vảy của ngón Nội đi thẳng lên nhập vào vảy của hàng Thới cũng đi lên, từ ngã ba đó tiếp tục đi lên ta đếm được năm vảy, đó là vạy LC. Gànầy đòn hung bạo, cựa đâm dử, nếu có bốn vảy gà cũng khá lắm.
Tiếng gáy:
+Âm Minh Hùng Đoản: Tiếng gà gáy to ồ, tiếng gáy cuối ngắn gọn, Gà nầy đá đòn chính xác, gan dạ, bền sức, giỏi nước khuya. Tóm lại gà hay.
+ Âm Minh Trung: Tiếng gáy cuối không dài không ngắn, nhưng tiếng cuối không ngân dài. Gà nầy văn vỏ song toàn.
+Âm Minh Thư Đoản: Tiếng cuối thật ngắn, toàn tiếng gáy âm thanh đều nhau, không tiếng lớn tiếng nhỏ, tiếng gáy như tiếng rít. Gà nầy là gà độc, có biệt tài.
+Âm Minh Thư Trường (xấu): Tiếng cưới kéo dài cho đến khi hết hơi, âm thamh cao thấp không đều nhau. Gà nầy bở sức , yếu hơi, không nên nuôi.
+ Âm Minh Thư Trường: Tiếng gáy cuối hơi dài một tí, tiếng gáy to ồ, âm thanh tiếng lớn tiếng nhỏ, không rỏ nét. Gà nầy có đòn tốt nhưng không có đòn nghiệt, cần phải xét lại tông dòng.
+Khi gáy thì miệng phải mở thật to, gà gáy miệng nhỏ không tốt cho lắm.
+Khi gáy mỏ dưới run thì không tốt, nếu run ít thì tốt, nếu không run càng quý
+Tiếng gáy không đều, am thamh lớn nhỏ. Gà yếu sức, khó đứng được nước khuya.
+Gà gáy từ năm tiếng trở lên, âm thanh đều nhau là gà hay, gáy bảy tiếng là Thần kê.
+Gà ngày mai ra thi tài, đêm nay gáy thúc từng cơn, gà nầy làLinh kê.
+Gà ban đêm về sáng gáy đúng giờ. Gà nầy có tài và có đòn quyết.
+Âm Minh Phụ: Miệng mở rộng, tiếng rít to, tiếng rít nhỏ thì phải kéo dài mới tốt. Gà có tiếng rít hai hoặc ba tiếng cùng một lúa, gà có đòn tài, cựa đâm dử.
CÁCH CHỌN GÀ
+”Gà bằng ngang như đón mời…”từ trên nhìn xuống thấy đầu gà bằng ngang, có khoảng hơi rộng, lần hai ngón tay, có khuyết hoặc lỏm vô, tiếp tục ngón tay dụng hai đầu nhọn, đó là anh gà thế.
+Gà đầu hẹp không có chiều ngang, gà nầy nhút nhát hay chạy bậy, không nên nuôi.
+Chí bất thoái:gà rất gan lỳ, thà chịu chết chứ không bỏ chạy, ví dụ như gà chân xanh mắt Ếch và anh chàng mặt Cóc.
+Gà lồi trên má: Mặt gà hơi có bề ngang.
+Mỏ Sỏ: Mỏ gà hơi cong, ngắn như mỏ chim sẻ, hơi suôn và có độ ngời khi tiếp xúc với anh sáng mặt trời.
+Mỏ ba lá: Hai bên mỏ có hai đường như ngấn, mỏ nầy rất cứng và vửng chắc.
+Mồng hoa Sung: Phần trên của gà không thẳng, uốn éo, mồng nầy hơi to một chút.
+Gà mà mồng đỏ thắm không mấy tốt. Mồng tốt thì hơi tái, khi rờ tay vào càng lạnh càng quý.
+“lại thêm anh nữa…” túc là gà có mầu mắt vàng thau (vàng thau là màu không quá vàng, màu thì hơi giống màu đồng”kim loại”.
+Vàng đất: Màu vàng pha lẩn màu đen, nếu có đốm đen là mắt Ếch.
+”màu đen cá Lóc…” như màu đen của chuột. Trồng mắt và con ngươi màu đen. Gà nầy thường hay bỏ chạy, không nên nuôi.
+”Mắt xanh có trắng” con ngươi màu đen (con ngươi nhỏ mới tốt) kế là một vòng xanh nhạt, kế nửa là màu trắng. Gà nầy có ba mầu mắt, gà rất tài ba.
+Độc long: Khi sinh ra chỉ có một mắt. Gà nầy thì khỏi chê về tài nghệ.
+Gà Ngũ sắc chính hiệu phải có lông màu tím, đôi cánh phải có 18 điểm khác màu trên hai cánh (mỗi cánh có 9 điểm).
+Nguyệt Cung: Tức là vòng cong như trăng lưởi liềm úp ngược, cómột vài lông trắng ở bên trong, khác với đuôi Lau. Gà nầy tốt lắm.
+Lông đuôi cánh quạt: Như mấy cái nan quạt khi mở ra.
+Vạch lông đuôi hoặc lông cánh, nếu có ba cộng lông như tóc quăn, gọi là gà Phản Vỷ, gà nầy tài nghệ khỏi chê.
+Lông đuôi có một cọng trắng tuyền, gọi là Bạch Linh. Tốt lắm.
+ Đứng giọt mưa: Gà đứng ngực cao gần như thẳng đứng, phao câu dưới thấp. Gà nầy đi trên, chuyên đá đầu mặt.
+ Đứng đòn cân: Gà đứng lưng bằng ngang song song với mặt đất. Gà nầy đi dưới, chuyên chui lòn, đá đùi, đá dỉa.
+ Cựa Hổ Trảo: Hình dáng giống như móng Cọp, cựa rất nhạy đâm.
+ Cựa bên ngắn bên sút: Một chân có cựa đóng cứng, một chân cựa lỏng lẻo nhứ sắp sút ra.Gà nầy xử dụng cựa mãnh liệt.
+ Lục đinh Lục giáp: Hai cưa nhỏ dưới cùng không được cứng. Gà nầy cũng xử dụng cựa ác liệt.
+ Gà có cựa óng ánh trong nắng, ẩn hiện màu xanh hay trắng hoặc vàng nhạt. Gà nầy cặp cựa nguy hiểm lắm.
+Vành Nguyệt: Cựa cong như trăng lưởi liềm.
+Nguyệt Lân: Cựa giống như sừng Lân.
+ Gà có vảy Thới tốt không chia cắt chạy dài vừa khỏi cựa cong vào ôm lấy cựa. Cựa nầy cũng là một vũ khí rất lợi hai.
+ Hoa Mai Cựa: Bên trong cán ở hàng Độ và hàng kẻm có vảy nhỏ hình hoa Mai ngang cựa. Gà nầy có tài xử dụng cựa.
+ Cựa song Đao: Cựa gà bên ngoài lớn nhỏ dần bên trong, cả hai cựa th2 gọi là cựa Song Đao.
+ Siêu Đao: Cựa tròn trong lớn ngoài nhỏ, nhọn , mủi cữa cong lên như đôi hia.
ĐÒN ĐỘC:
- Đòn Lịch Bái: đòn đá vào cần làm co đỉch thủ gảy cổ hoặc cắm cần cổ xuống đất.
- Đòn Xuyên Tâm: đá sâu vào thân địch thủ.
- Đòn Xung Phong: đòn nạp, đòn buông rất mạnh vào địch thủ.
- Đòn Áp Thổ: cắn lôi đầu địch thủ để đá ngang.
Tử Huyệt:
+Huyệt Mã Kỵ: Ở mu lưng bên dưới là là phổi gà, nếu bị cựa gà sẽ trào máu miệng chết ngay.
+ Huyệt Mắt Cần: Cần cổ gà nối lãi với nhau bằng những mắt như mắc cây tre, nếu cựa vào đây gà sẽ cắm mỏ xuống đất không còn đá được nữa.
+Huyệt Mỏ Lườn Ra gần đầu của lườn gọi là Mỏ Lườn, nếu cựa hoặc chân đá nhẹ vô bên dưới lườn gà có thể bị đui mắt.Nhớ khi cắp độ coi chừng sư kê của đối thủ “điểm”huyệt nầy khi bồng lên để so trong lượng của gà.
VẤN CÁN VÀ CÁC VẢY CÓ LIÊN QUAN:
– Vấn Cán(tuỳ): Từ vảy thứ tư trở xuống đến cựa (ngoại trừ vảy thứ bảy) có vảy vấn từ hàng Trong ra suốt hàng Ngoài là vảy quấn cán, vảy nấy xấu không nên nuôi, nếu như không có một vảy hay nào kèm theo.
– Án Thiên: Vảy đầu tiên trên gối (dưới mấy vảy nhỏ) có hình dáng như Vấn Cán, đó là Án Thiên đệ nhất.
– Hàng vảy thứ hai là Án Thiên đệ nhị (vảy Án Vân ).
– Hàng vảy thứ ba là Án Thiên đệ tam (Án Tâm ). Gà chân đóng vảy Án Thiên gà rất tài ba.Chân có đóng cả ba vảy gọi là Tam Tài Án Thiên.
– Phủ Địa: Hình dáng giống như Án Thiên nhưng đóng dưới chậu, trên các vảy ngón, nếu đóng cả ba vảy là Tam Tài Phủ Địa, còn thêm một vấn khâu nữa tức là bốn vảy thì không đúng cách, còn gà tài nghệ như thế nào thì không thấy các tài liệu đề cập tới. Gà Phủ Địa cũng tài ba chẳng thua kém gì ÁnThiên.
– Vấn Khâu: Vảy Quấn dưới cựa trên hàng vảy thứ ba từ dưới đếm lên, vảy nầy cũng không nghe nói đến tài nghệ nhưng không phải là vảy xấu.
– Hoành Không (xấu): Hình dáng như quấn Cán, đầu Ngoài lớn đuôi ở hàng Trong nhỏ, vảynầy thường đóng gần gối, gà có vảy nầy đá dở.
+ Kích Giáp: Vảy vấn cán từ cựa đếm lên bốn vảy Vấn. Gà nầy rất hay, có thể hạ địch thủ chớp nhoáng. Nếu lỡ gặp gà tài muốn thắng nó không phải dễ dàng.
+ Xuyên Thành Giáp: Dưới cựa có hai Liên Giáp Ngoại ở hàng Thành, bên trên có hai Vấn Cán liền nhau(không đóng trong hàng vảy Án Thiên). Gà nầy là gà hay, gà độc.
+ Ván Án Hoành Khai: Hai vảy Phủ Địa có đường lỏm như chia đôi vảy, nếu có liên tiếp bốn vảy là Quý kê. Gà nầy đá đòn rất hiểm, khi đá hay tạt , hay quăng.
+ Nguyệt Tà: Dưới cựa có vấn Cán, đầu lớn ở ngoài Thành (hình thức như lưởi búa) đầu nhỏ ở hàng Quách.Gà nầy đá được nhiều đòn, nhiều thế, đá ngang, sỏ, mé. Đòn nào cũng hay.
+ Song Âm Song Dương: Hai chân, mỗi chân có vảy Án Thiên, mỗi chân có thêm hai Vấn Cán(trên cựa).Gà nầy rất tài ba.
+Tam Cương: Ba Vấn Cán ngay cựa, đầu ở hàng Thành hơi cao một chút nếu so với hàng Quách.Gà nầy tài nghệ miển chê.
+ Giao long, Nghịch lân, Bản phủ và huỳnh kiều:
Vảy vấn mà nằm từ hàng vảy thứ 2-3 có đầu to đuôi nhỏ đầu ở hàng quách đuôi ở hàng thành đầu cao đuôi thấp thì đó là giao long gà có giao long là gà chuyên đi duới chui luờn cắn gối đá phá đùi đối thủ còn vảy vấn đóng ở hàng thứ 2-5 đầu ở hàng thành đuôi hàng quách thế tuơng tự như giao long gọi là huỳnh kiều gà có huỳnh kiều may độ và có đòn quyết, còn vảy vấn mà đầu nhỏ đuôi to hình như luỡi búa (rìu) đầu ở hàng thành đuôi ở hàng quách thì đó là bản phủ rất hay ăn đuợc kích giáp hay yểm long, kính giáp là vảy gồm 2 vảy vấn cản liền nhau nhưng dính liền ở giữa, gà này may độ và chân đánh mau. Nghịch lân là vảy vấn ngang cựa nhưng nó gồm một vảy bên hàng qoách và 2 vảy bên hàng thành gà có vảy này thiện nghệ dùng cựa và cưa cực kỳ uy lực.